Thị trường việc làm CNTT/1

Thị trường việc làm CNTT phần 1

Hôm qua, tôi nhận được một email người gửi viết: “Thật là hay khi biết rằng thị trường việc làm cho công nghệ thông tin (CNTT) đang cải thiện và có nhiều việc làm ở Mĩ và đâu đó khác. Tuy nhiên, ở nước tôi, chẳng cái gì thay đổi cả. Thị trường việc làm vẫn gay gắt, nhiều sinh viên CNTT vẫn gặp khó khăn tìm việc làm. Chúng tôi nên làm gì để cải thiện thị trường việc làm của chúng tôi? Thầy có lời khuyên nào không?"

Đáp: Có hai yếu tố có thể cải thiện thị trường việc làm CNTT. Nếu nền kinh tế của nước bạn đang tăng trưởng mạnh thì các công ty địa phương sẽ cần thuê thêm công nhân CNTT, giả định tất cả họ đều có kĩ năng cần thiết. Đó là yếu tố bên trong hay tăng trưởng việc làm từ bên trong. Yếu tố khác hay yếu tố bên ngoài nghĩa là việc làm được đưa vào từ bên ngoài.

Với toàn cầu hoá, điều xảy ra trong thị trường việc làm của nước này cuối cùng sẽ tác động lên nước khác. Ngày nay, có thiếu hụt trầm trọng công nhân CNTT có kĩ năng cả ở Mĩ và châu Âu. Bạn nghĩ các nước này sẽ phải tìm công nhân có kĩ năng ở đâu để đáp ứng cho nhu cầu của họ? Một số công ty sẽ phải mở văn phòng ở các nước có công nhân có kĩ năng, công ty kia sẽ khoán ngoài công việc CNTT cho nước khác, hay thuê công nhân nước ngoài và đưa họ vào nước mình. Bất kể tới chọn lựa của họ, không công ty nào sẽ chỉ lựa chọn ngẫu nhiên bất kì nước nào để thuê công nhân nhưng đều tiến hành khảo sát để tìm ra nước nào là tốt nhất cho họ. Ngày nay, Ấn Độ, Trung Quốc và Nga là ba điểm đến chính nhưng cả ba cũng đang hết công nhân có kĩ năng. Việc tìm các điểm đến khác đã bắt đầu vì sự phục hồi của kinh tế toàn cầu. Chìa khoá cho yếu tố ngoài đối với cải thiện thị trường việc làm là biết họ đang tìm gì và chuẩn bị cho điều đó.

Điều đầu tiên nước khách hàng (nước cần công nhân có kĩ năng) muốn biết là hệ thống giáo dục của nước cung cấp (nước có công nhân có kĩ năng) tốt thế nào. Họ cần dữ liệu về hệ thống giáo dục như loại chuẩn giáo dục quốc tế nào mà nước cung cấp tuân theo; phương pháp đào tạo nào mà nước cung cấp dùng; số lượng các môn học nào có trong chương trình đào tạo CNTT (chương trình giảng dạy) và liệu nó có quan hệ gì với các trường khác ở nước khách hàng để so sánh và tham chiếu không. Họ cũng cần thông tin về nghiên cứu và phát triển đại học, chất lượng giảng viên các khoa, dữ liệu về số sinh viên đăng tuyển vào CNTT và số người tốt nghiệp CNTT mỗi năm. Một nước với hệ thống giáo dục tốt nhưng chỉ cho tốt nghiệp một số giới hạn sinh viên CNTT có thể không phải là tốt nhất do qui trình chọn lọc. (Về trung bình, phải mất từ mười tới hai mươi ứng cử viên mới thuê được một công nhân có kĩ năng đủ tư cách.)

Điều thứ hai mà nước khách hàng muốn biết là chi phí làm kinh doanh khi so sánh với nước của họ. Nó có thấp hơn không? Bằng, hay cao hơn? Chi phí làm kinh doanh KHÔNG chỉ là chi phí lao động (lương) mà còn chi phí kết cấu nền (điện thoại, internet, các tiện ích v.v.), và chi phí sống trung bình. Họ cần dữ liệu về các loại thuế (thuế xuất/nhập khẩu, kinh doanh và thu nhập) và luật của chính phủ như bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, luật bản quyền và các qui chế khác.

Điều thứ ba mà nước khách hàng muốn biết là kĩ năng của công nhân CNTT. Kĩ năng này không chỉ là kĩ năng kĩ thuật mà còn cả kĩ năng mềm và kĩ năng ngôn ngữ (như tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng Nhật Bản v.v.) và số công nhân sẵn có (bao nhiêu người sẵn có để làm việc hôm nay và vài năm tới). Sau đây là câu hỏi mẫu mà nhiều công ty toàn cầu đang dùng trong khảo sát của họ để kiểm (có hay không):

Tác phẩm, tác giả, nguồn

  • Tác phẩm: Xu hướng khoa học công nghệ toàn cầu
  • Nguồn: Blog của giáo sư John Vu, Carnegie Mellon University.
  • Wiki hóa: https://kipkis.com