Công nhân tri thức
Trong thời đại công nghiệp, sản phẩm được chế tạo là nhân tố kinh tế then chốt, sản phẩm xuất khẩu càng nhiều, nền kinh tế càng tốt. Tuy nhiên trong thời đại thông tin, tri thức và kĩ năng có giá trị kinh tế cao hơn do nhu cầu cao về những kĩ năng này để xây dựng xã hội tri thức. Người được giáo dục tốt được cần tới để tạo ra sự giầu có mới, vì nó không còn là "sản phẩm được chế tạo" mà là "sản phẩm trí tuệ.” Ngày nay công nhân có kĩ năng có nhiều cơ hội hơn công nhân lao động không kĩ năng và họ nhận được chính sách nhập cư thuận lợi bởi vì hầu hết các nước đã phát triển đều có nhu cầu lớn về kĩ năng của họ. Giá trị kinh tế của công nghệ thông tin, khoa học, và y học có thể đóng góp cho các việc sử dụng đa dạng: Nguồn lực năng suất cho ngành công nghệ cao như kĩ sư phần mềm, nguồn lực cho công nghiệp tài chính như nhà doanh nghiệp, nguồn lực cho công nghiệp tri thức như nhà khoa học, hay nguồn lực cho ngành công nghiệp dịch vụ như y tá hay bác sĩ. Việc di chuyển của những kĩ năng này có tác động quan trọng lên các nước nguồn, các nước nhận và nền kinh tế toàn cầu nói chung như một tổng thể. Ở các nước nguồn, việc mất những kĩ năng này làm giảm cơ hội cho họ để phát triển về mặt kinh tế. Tương phản lại, các nước nhận sẽ được lợi lớn từ luồng vào của những kĩ năng này để làm mạnh cho nền kinh tế của họ và làm giảm việc thiếu hụt người kĩ năng cao.
Dựa trên vài nghiên cứu của chính phủ, các nước đã phát triển như Mĩ, châu Âu và Nhật Bản cần nhiều người về công nghệ thông tin, viễn thông và khoa học máy tính. Đây là những người có bằng cấp đại học về toán, kĩ nghệ phần cứng, và kĩ nghệ phần mềm. Họ có thể là người phát triển phần mềm và phần cứng trong công nghiệp thông tin hay có tham gia vào ngành công nghiệp công nghệ cao. Thuật ngữ chung là “công nhân tri thức” và họ thường nhận được visa thuận lợi để ở lại và làm việc trong các nước đã phát triển cao này. Ngày nay nhà xuất khẩu chính các "công nhân tri thức" này là Ấn Độ, nước có có số các nhà khoa học và kĩ sư lớn nhất đang làm việc tại Mĩ. Gần 85% sinh viên Ấn Độ học tập trong các đại học của Mĩ đã không trở về Ấn Độ và phần lớn trong số họ được phép làm việc thuận lợi và cuối cùng lấy qui chế cư dân vĩnh viễn ở tại Mĩ. Nhiều người trong những công nhân có kĩ năng này tới từ các nước được gọi là "hiện tượng chảy não” và ngày nay các nước chịu tổn thất nhất là Ấn Độ, Trung Quốc, Nga, Ukraine, Belarus, Hungary, và Ba Lan.
Các nhà khoa học và các giáo sư hàn lâm là phân khúc khác của “Công nhân tri thức.” Phần lớn đều là những người có bằng cấp cao về khoa học tự nhiên như vật lí, toán học và hoá học. Nếu họ có phẩm chất tốt với nhiều xuất bản phẩm thì họ có thể dễ dàng tìm việc ở các nước đã phát triển. Nhiều nhà khoa học rời khỏi nước mình bởi vì lương cao, tiện nghi làm việc tốt hơn; phòng thí nghiệm tốt hơn và khả năng tăng thêm tri thức của họ và tương tác với các nhà khoa học khác. Dựa trên dữ liệu được thu thập từ bẩy nghìn nhà khoa học di cư sang Mĩ trong năm năm qua, phần lớn đều trích dẫn các lí do về lương thấp ở nước mình, việc thừa nhận nghề nghiệp bị giới hạn, thịnh vượng nghề nghiệp nghèo nàn và thiếu tiện nghi nghiên cứu ở nước mình. Con đường chính qua đó nhiều nhà khoa học tới các nước đã phát triển là họ tới như sinh viên tốt nghiệp để nhận bằng Thạc sĩ, bằng Tiến sĩ hay để theo đuổi học bổng sau tiến sĩ. Rất ít người trở về nhà sau khi tốt nghiệp trong khi đại đa số ở lại làm việc trong các đại học, trung tâm nghiên cứu, và công nghiệp của nước nhận.
Một bộ phận quan trọng khác của việc di cư thường không được nhắc tới trên báo chí là các nhà doanh nghiệp. Đây là những người không nhất thiết có nhiều giáo dục chính thức nhưng họ có nhiều tiền để đầu tư và tìm những cơ hội tốt hơn ở đâu đó khác ngoài nước họ. Bởi vì họ đem theo nhiều tiền cho nên việc khởi đầu của họ có thể có ảnh hướng lớn tới nền kinh tế của nước của họ. Theo cảnh quan lịch sử, những người thành công như Mellon, Vanderbilt, Rockefeller, và Rothschild tất cả đều là các doanh nhân di cư từ châu Âu sang Mĩ vào cuối thế kỉ 19. Họ tất cả đều mang theo mình số vốn lớn để đầu tư và giúp làm mạnh nền kinh tế Mĩ lúc đó vẫn còn chưa được phát triển. Tất nhiên, không phải mọi người đều giầu như họ và phần lớn các doanh nhân đều là những người làm doanh nghiệp nhỏ, người vận hành tiệm ăn, khách sạn, cung cấp dịch vụ như công việc gia đình. Chẳng hạn, con số các tiệm ăn Trung Quốc ngày nay ở Mĩ gấp ba lần tổ hợp của tất cả các tiệm ăn nhanh của Mĩ (McDonald, Burger-King, và Taco Bell v.v.). Doanh nghiệp về thảm và đồ đạc bị thống trị bởi người Thổ nhĩ kì, Pakistani, và Ma rốc. Những doanh nghiệp di cư này không yêu cầu tài chính nhiều nhưng họ có đóng góp cho nền kinh tế của nước nhận. Thỉnh thoảng, nếu điều kiện thuận lợi một số có trở về nước nhà đem theo vốn và mối liên hệ đã phát triển ở nước ngoài.
Việc di chuyển của công nhân tri thứ trên thế giới nhấn mạnh tầm quan trọng của giáo dục trong việc phát triển các kĩ năng này để đáp ứng nhu cầu toàn cầu cao. Sinh viên có tài thường chọn các trường danh tiếng để cho nghề nghiệp được trả lương cao hơn bởi vì việc thu hồi vốn đầu tư cao nhất vào tri thức dồn vào những cá nhân có kĩ năng cao, người đã tốt nghiệp từ các đại học nổi danh. Ở Mĩ, có sự khác biệt lớn về lương của sinh viên mới tốt nghiệp từ các đại học hàng đầu như Harvard, Stanford, hay Massachusetts Institute of Technology (MIT) khi so sánh với hầu hết các đại học của nhà nước. Cùng điều này cũng có thể thấy ở Anh, Pháp, Đức và Nhật nơi các đại học hàng đầu hấp dẫn những sinh viên giỏi nhất và cho tốt nghiệp những công nhân có tài năng nhất cho công nghiệp. Mặc dầu kĩ năng rất phụ thuộc vào cá nhân và động cơ của họ nhưng ngày nay phần lớn các công nghiệp bao giờ cũng ưa thích các trường tư hơn trường của nhà nước bởi vì giáo trình của họ khớp nhiều với “Thực hành trong công nghiệp” hơn là “Giáo trình hàn lâm” tại đại học nhà nước. Khái niệm mấu chốt về cách tiếp cận “giáo dục như đầu tư” để đáp ứng nhu cầu thị trường đã từng bị cộng đồng hàn lâm phê phán khi họ nói rằng giáo dục phải hội tụ vào “Tri thức thuần khiết” để phát triển “Con người” chứ không phải là “Công nhân tri thức” cho công nghiệp. Các trường tư tuyên bố rằng giáo dục chỉ đóng vài trò quan trọng trong “việc cung cấp thông tin cho sinh viên, người tự giáo dục bản thân mình về khả năng riêng của họ.” Vậy giáo dục giúp cho sinh viên thu thập thông tin về năng lực của họ và tiềm năng trong thị trường sau khi hoàn thành nghiên cứu của họ. Chính chọn lựa cá nhân là đi tới nơi sinh viên thấy khớp để đáp ứng mục đích nghề nghiệp của họ. Tranh cãi này vẫn còn diễn ra và có lẽ sẽ không chấm dứt trong tương lai gần nhưng ngày nay việc di chuyển công nhân tri thức toàn cầu đã làm thay đổi sự cân bằng giữa các nước đã phát triển và các nước đang phát triển một cách có ý nghĩa. Khái niệm then chốt là mọi người sẽ đi tới nơi có cơ hội và với toàn cầu hoá, sự lưu động của họ còn dễ dàng hơn nhiều nếu họ có tri thức và kĩ năng.
Tác phẩm, tác giả, nguồn
- Tác phẩm: Xu hướng khoa học công nghệ toàn cầu
- Nguồn: Blog của giáo sư John Vu, Carnegie Mellon University.
- Wiki hóa: https://kipkis.com