Động viên sinh viên/2

Động viên sinh viên/2

Mọi giáo sư đều muốn sinh viên học và áp dụng điều họ đã học để phát triển các kĩ năng của họ. Tuy nhiên động viên sinh viên học là không dễ bởi vì có nhiều điều làm sao lãng cả bên trong và bên ngoài trường. “Học theo ghi nhớ” truyền thống và cách tiếp cận đọc bài giảng khi giáo sư nói và sinh viên nghe đã lỗi thời vì nó chỉ tạo ra người tốt nghiệp có thể trích dẫn lại “mọi thứ” nhưng có thể không có kĩ năng thực hành và kinh nghiệm được cần trong thế giới doanh nghiệp hiện đại do đó chúng ta cần cách tiếp cận khác.

Để làm cho sinh viên học, tôi phân công bài đọc hàng tuần mà sinh viên phải đọc trước khi tới lớp vì tôi hội tụ nhiều hơn vào thảo luận thay vì cho bài giảng. Tôi nghĩ cách tốt nhất để động viên sinh viên học là đưa họ tham gia tích cực vào việc học riêng của họ. Đứng trước họ và đọc bài giảng không phải là phương pháp dạy hiệu quả. Tốt hơn cả là làm cho họ tham gia vào trong thảo luận lớp, công việc tổ để giải quyết vấn đề và thi nhau tìm cách tốt nhất làm nó. Về truyền thống, phần lớn các môn học đại học ở Mĩ đều có hai kì thi trong từng học kì – thi giữa kì và thì kết thúc nhưng thay vì làm điều đó, tôi co những bài thi ngắn hàng tuần (câu hỏi) vào mọi thứ sáu và không có thi giữa kì và thi kết thúc. Bằng việc có nhiều bài thi ngắn trên cơ sở tài liệu từng tuần nó yêu cầu sinh viên phải dự mọi lớp, đọc mọi bài được phân công để làm tốt trong các bài thi hàng tuần này; điều đó cũng có nghĩa là họ phải học mọi thứ theo nhịp vững chắc.

Mọi năm, vào ngày đầu tiên của lớp khi tôi giới thiệu qua nội dung môn học, sinh viên nhìn vào bài đọc được phân công, bài thi hàng tuần và bắt đầu lầu lầu phản đối. Vậy rồi tôi hỏi họ “Các em nghĩ gì khi các em thấy nhiều bài thi? Các em muốn học cái gì trong môn của tôi? Các em thích cái gì và không thích cái gì về cách tiếp cận này?” Và rồi câu hỏi lớn hơn: “Nói cho thầy loại tri thức và kĩ năng nào em sẽ cần để có được việc làm trả lương tốt ngày nay?” Tôi để cho sinh viên nêu ra ý kiến của họ và thảo luận với họ chỉ khi tôi đã ra quyết định đó. Tất nhiên, tôi cũng để cho họ biết rằng tôi sẽ phải làm việc vất vả hơn để cho điểm 30 tới 50 bài thi mọi tuần nhưng tôi làm điều đó bởi vì tôi chăm nom tới việc học của họ. Đến cuối, phần lớn đều được thuyết phục rằng cách tiếp cận này sẽ làm cho họ học nhiều hơn và giúp cho tương lai của họ.

Có bài kiểm tra hàng tuần sẽ giúp cho sinh viên theo kịp với tiến độ của lớp; sinh viên cũng biết họ học tốt thế nào trên cơ sở hàng tuần thay vì đợi 6 hay 7 tuần đến kì thi giữa kì. Nó khử bỏ việc “học nhồi nhét” mà sinh viên thường làm khi họ phải học nhiều tài liệu trong vài ngày trước kì thi lớn; theo cách tiếp cận này, họ chỉ học những mảnh nhỏ tài liệu mỗi tuần. Sinh viên không học tốt tuần thứ nhất và bị buộc học bài kiểm tra tiếp; nếu sinh viên không làm tốt trong một bài kiểm tra, bao giờ cũng có hi vọng về hiệu năng tốt hơn trong bài kiểm tra tiếp, như tương phản với bài thi giữa kì kém có thể cho sinh viên điểm cuối cùng thấp.

Trong nhiều năm, tôi bao giờ cũng cho phép cách tiếp cận này và sinh viên về sau bình luận rằng họ thực tế thích điều này hơn hai kì thi truyền thống cho một học kì. Tôi cũng nghe sinh viên trong các môn khác nói rằng họ ước là họ có thể học môn của tôi thay vì môn của họ. Điều rõ ràng là cách tiếp cận này đã thành công trong việc làm cho sinh viên học nhiều hơn. Bằng việc có bài thi hàng tuần, nó cũng cho tôi thông tin về cách sinh viên học môn của tôi. Nếu một sinh viên không học tốt, tôi có thể chú ý nhiều hơn tới sinh viên đó nhưng nếu phần lớn sinh viên bỏ một câu hỏi, đó là chỉ báo rằng họ không hiểu chủ đề đó và tôi cần kiểm điểm lại chủ đề đó trên lớp lần nữa. Bằng việc giám sát tiến độ môn học, tôi có thể điều chỉnh việc dạy của tôi theo việc học của sinh viên. Sinh viên bao giờ cũng được động viên để học từ giáo sư người chăm nom tới tiến bộ của họ. Lí do mà sinh viên không học tốt vì họ không hiểu tại sao họ phải làm nó cho nên tôi dành thời gian giải thích tại sao chủ đề hay hoạt động là quan trọng cho họ và họ sẽ làm gì với tri thức đó khi họ đi làm việc. Sinh viên được động viên và cam kết học cái gì đó mà có giá trị cho họ mà họ có thể thấy như đáp ứng được nhu cầu của họ. Họ sẽ làm việc chăm chỉ và làm nhiều hơn nếu họ được thuyết phục rằng điều họ đang học sẽ giúp cho họ trong tương lai.

Giáo dục truyền thống hội tụ quá nhiều vào điều những người hàn lâm nghĩ sinh viên phải biết nhưng nhiều điều họ dạy đã nhanh chóng bị quên lãng, vì nó không đóng góp cho thách thức mà sinh viên sẽ đối diện khi họ đi làm việc. Thay vì để cho họ ghi nhớ mọi sự kiện và dữ liệu thông thường, tôi thường thảo luận với họ về nghề nghiệp của họ, viễn kiến của họ về tương lai, về loại tư duy và hiểu biết họ sẽ cần làm tốt trong thế giới toàn cầu phức tạp. Khi một sinh viên hỏi: “Chúng em có cần ghi nhớ công thức này hay sự kiên này không?” Tôi trả lời: “Em có biết cách Google không? Nếu em biết thì sao bận tâm với việc ghi nhớ?” Khi cả lớp cười to, tôi nhắc họ rằng với công nghệ, việc học sẽ dễ dàng hơn nhiều nhưng họ vẫn cần suy nghĩ. Họ phải học cách và khi nào ra quyết định và quan trọng hơn, họ phải hiểu cách áp dụng tri thức của họ.

Tác phẩm, tác giả, nguồn

  • Tác phẩm: Lời khuyên về giảng dạy dành cho giáo viên
  • Nguồn: Blog của giáo sư John Vu, Carnegie Mellon University.
  • Wiki hóa: https://kipkis.com