Học sinh châu Á và học tích cực

Học sinh châu Á và học tích cực

Trong nhiều thế kỉ, học sinh châu Á được dạy phải thụ động và tuân theo kỉ luật chặt chẽ trong lớp cho nên nhiều người thấy khó chấp nhận phương pháp học tích cực mới. Đó là lí do tại sao nhiều học sinh KHÔNG đọc cái gì TRƯỚC khi lên lớp vì họ muốn được nói cho thay vì tự họ tích cực học. Nhiều học sinh sẽ KHÔNG tự nguyện thảo luận cái gì trong lớp vì sợ nói cái gì đó sai và bị cười. Nhiều học sinh có thể KHÔNG đọc gì bên ngoài tài liệu được phân công để chắc họ sẽ qua được bài thi. Nhiều học sinh có thể KHÔNG đi vào chủ đề sâu sắc hay "nội nhập hoá" tri thức của họ mà chỉ ghi nhớ một số sự kiện để đáp ứng cho yêu cầu của nhà trường. Nhiều học sinh CHỈ làm điều cần thiết để có được bằng cấp thay vì phát triển tri thức và kĩ năng riêng của họ. Thái độ này có hậu quả tiêu cực lớn.

Tôi để ý vấn đề này trong vài năm qua với một số học sinh châu Á trong lớp của tôi. Phần lớn họ đều là học sinh giỏi, bắt nguồn từ các trường hàng đầu với điểm tốt nhất nhưng thường vật lộn để theo hướng dẫn trên lớp và không thể cạnh tranh được với các học sinh khác. Nhiều giáo sư tin đó là do khiếm khuyết tiếng Anh và gợi ý họ học thêm lớp tiếng Anh nhưng tôi không đồng ý vì tất cả họ đều có điểm TOEFL tốt và không có vấn đề gì trong đọc và viết. Vì việc nhận vào học tại Carnegie Mellon là rất chọn lọc, nếu họ đủ chất lượng đáp ứng với chuẩn nghiêm ngặt thì nó phải là cái gì đó khác. Bằng việc có nhiều thảo luận với họ, tôi thấy rằng chính do thái độ của họ và thói quen học tập đã ngăn cản họ đạt tới tiềm năng của họ. Sự kiện là ở chỗ họ KHÔNG có khả năng chấp nhận phương pháp học thường được dạy trong đại học Mĩ và điều đó làm hại họ cả về mặt hàn lâm lẫn chuyên nghiệp.

Một học sinh bảo tôi: “Em đã học chăm chỉ hơn khi em còn ở đại học trong nước. Em thậm chí đã không ngủ đủ nhưng vẫn không thể làm tốt trong bài kiểm tra hàng tuần của thầy.” Tôi thấy rằng anh ta đã ghi nhớ cả chương trong sách giáo khoa hơn trăm trang nhưng không thể trả lời được câu hỏi trong bài kiểm tra. Lí do là tôi đã không hỏi về sự kiện mà muốn họ giải quyết vấn đề bằng việc áp dụng tri thức của họ. Anh ta phàn nàn: “Sao thầy không yêu cầu em viết ra những câu nào đó trong sách giáo khoa hay những định nghĩa nào đó vì em đã nhớ được tất cả chúng?” Tôi phải mất một lúc mới nhận ra rằng anh ta là nạn nhân của giáo dục truyền thống khi ghi nhớ được khuyến khích. Một học sinh khác phàn nàn: “Câu hỏi kiểm tra của thầy thậm chí không có trong sách giáo khoa vì em biết tất cả chúng.”

Lí do nhiều người trong số họ có vấn đề là vì họ liên tục dùng cùng phương pháp mà họ đã dùng ở trường phổ thông hay đại học như việc nghe thụ động điều giáo viên nói nhưng không đưa nỗ lực nào và "nội nhập hoá" nó. Cách nhìn của họ về việc học là về nhận thông tin và trao lại nó mà không hiểu rằng nó phải được tái cấu trúc từ hiểu biết riêng của họ. Họ thường liên kết việc học với ghi nhớ và biết mọi sự kiện trong sách giáo khoa. Phương pháp học cổ này sẽ không có tác dụng trong môi trường ngày nay và sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới tương lai của họ.

Trong các trường phương tây, học sinh không muốn nói nhiều và không thực hành trong lớp bị coi là "yếu". Học sinh ngần ngại bày tỏ quan điểm của mình trước lớp bị cả giáo viên và các học sinh khác coi là "đờ đẫn và không sẵn lòng học.” Vì hầu hết các thầy giáo đều ưa thích học sinh tích cực để làm cho thảo luận trên lớp sinh động hơn, họ thường bỏ qua các học sinh thụ động và không bao giờ gọi những người này lên thảo luận cái gì. Quan niệm sai này thường có tác động tiêu cực lên hiệu năng của học sinh và điểm cuối cùng. Nó cũng bị coi là rất tiêu cực trong phỏng vấn việc làm bởi người quản lí thuê người vì người im lặng bị coi là “bất lực”. Năm ngoái một người quản lí thuê người đã hỏi: “Làm sao mà một số người tốt nghiệp không thể nói được cái gì tích cực trong phỏng vấn việc làm? Họ chỉ trả lời các câu hỏi nhưng chưa bao giờ hỏi bất kì cái gì?"

Tất nhiên, là người châu Á tôi biết vấn đề của họ rất rõ vì hơn bốn mươi năm qua, tôi đã gặp cùng vấn đề. Từ bên ngoài, học sinh châu Á dường như thụ động nhưng tâm trí họ rất tích cực. Họ làm việc chăm chỉ và bao giờ cũng nghĩ nhưng chính thói quen cũ từ phương pháp học cổ đã ngăn cản họ khỏi việc tích cực. Một học sinh bảo tôi: “Khi em còn trẻ, nếu em nói cái gì đó trong lớp em bị phạt vì làm ngắt quãng lớp cho nên em học phải yên tĩnh.” Học sinh khác giải thích: “Trong đại học của em, nếu em nói cái gì đó khác với điều thầy giáo muốn, em bị điểm kém cho nên em học cách không bày tỏ ý kiến riêng của em nữa.”

Để khuyến khích những học sinh này tham gia vào học tích cực, ngay ngày đầu của lớp tôi bao giờ cũng giải thích sự khác biệt giữa hai phương pháp này. Tôi giải thích rõ ràng cho họ tại sao điều quan trọng là tham gia vào lớp một cách tích cực để xây dựng thói quen tốt và phát triển kĩ năng mềm. Tôi thay đổi hệ thống cho điểm bằng việc cho 20% điểm số cho người tham gia trên lớp để khuyến khích họ tham gia nhiều trên lớp. Tôi cũng giải thích rằng không có câu trả lời đúng hay sai mà chỉ có các ý kiến khác biệt cho nên họ không phải lo nghĩ về việc nói cái gì đó sai trong thảo luận trên lớp. Tất nhiên, không dễ cho họ thay đổi vì cần thời gian cho thay đổi thói quen cũ.

Có khía cạnh khác về sự trưởng thành của học sinh. Học sinh phương tây, đặc biệt học sinh Mĩ, học được độc lập rất sớm nhưng nhiều học sinh châu Á vẫn chưa trưởng thành cho dù họ vào đại học. Văn hoá châu Á coi trọng giáo dục và bố mẹ thường hi sinh mọi thứ để cho con cái họ có được giáo dục tốt nhất có thể. Phong tục này đã dẫn tới việc phát triển con cái được nuông chiều và được bố mẹ cho mọi thứ họ cần mà không phải làm gì. Một học sinh bảo tôi: “Em đã được bảo phải học vì mọi thứ khác sẽ được gia đình em lo liệu cho nên em vùi mình trong sách vở và không nghĩ tới cái gì khác.” Thái độ này đã dẫn nhiều học sinh tới việc thiếu nhận biết về điều đang xảy ra trong thế giới quanh họ vì họ không biết gì ngoài công việc nhà trường. Nhiều người chỉ biết điều được dạy trong trường nhưng hiếm khi đọc về bất kì cái gì khác bên ngoài giáo trình của họ. Đó là lí do tại sao nhiều người trong số họ có vấn đề khi họ phải đối diện với thực tại của cuộc sống. Nhiều người bị thất vọng sau khi họ có bằng cấp nhưng không thể tìm được việc làm và nhiều người đảo ngược giận dữ của họ hướng về gia đình và xã hội của họ.

Tác phẩm, tác giả, nguồn

  • Tác phẩm: Lời khuyên cho sinh viên
  • Nguồn: Blog của giáo sư John Vu, Carnegie Mellon University.
  • Wiki hóa: https://kipkis.com

Có thể bạn muốn xem