Giáo dục cho tương lai
Ngày nay mọi nước đều cần có nhiều người được giáo dục, đặc biệt trong Khoa học, Công nghệ, Kĩ nghệ và Toán học (STEM). Trong thế giới được toàn cầu hoá đầy cạnh tranh này nơi mọi thứ đều được kết nối và được dẫn lái bởi công nghệ, công nhân tri thức là nhiên liệu cho tăng trưởng kinh tế. Thảm kịch là có nhiều người tốt nghiệp đại học bị thất nghiệp mà không có tương lai nhưng đồng thời, có nhiều việc làm mở ra mà không được lấp đầy. Vấn đề không phải là sự sẵn có về công nhẫn mà là thiếu hụt công nhân có kĩ năng công nghệ điều các công ti cần, vì người tốt nghiệp đại học không có những kĩ năng này.
Vấn đề được bắt rễ trong giáo dục truyền thống dựa trên mô hình lỗi thời nơi đỗ kì thi và có được bằng cấp là quan trọng hơn phát triển kĩ năng và năng lực. Từ năm 2000, công nghệ đã làm thay đổi cách các công ti vận hành khi mọi thứ được kết nối, luồng công việc được tự động hoá, và một số công việc đã được phân bố toàn cầu. Bản chất của công việc, việc làm, và nghề nghiệp cũng đã thay đổi lớn, bắt đầu với cái nhìn rằng cách mọi sự làm việc mà chúng ta đã biết đang thay đổi nhanh. Năm ngày làm việc truyền thống một tuần đã đổi thành 24 giờ trên bẩy ngày do nền kinh tế toàn cầu. Nhiều công việc lao động đã được tự động hoá bằng robot hay được khoán ngoài cho các nước có chi phí thấp hơn. Từ cảnh quan của sinh viên đại học những thay đổi này là lớn nơi các năng lực là quan trọng và bằng cấp không còn là đảm bảo cho việc làm. Để có nghề nghiệp thuận tiện trong tương lai, sinh viên phải có kĩ năng, đặc biệt những kĩ năng mà thị trường việc làm cần. Các mô hình giáo dục mới dựa trên kĩ năng và năng lực là sẵn có và đã được dùng trong nhiều nước nhưng đã không được các nhà giáo dục ở các nước khác chấp nhận do sợ mất kiểm soát. Thực tại là sinh viên ngày nay không cạnh tranh về việc làm bên trong nước riêng của họ mà cạnh tranh với những người khác từ các nước khác. Trong thế giới được kết nối toàn cầu này, việc làm có thể chuyển từ chỗ này sang chỗ khác và nó có thể xảy ra rất nhanh. Chẳng hạn, mọi người thường tự hỏi về tình huống của Tây Ban Nha, Hi Lạp và Italy nơi không lâu trước đây, tất cả họ đều có nền kinh tế mạnh và đầy việc làm nhưng đột nhiên nền kinh tế của họ sụp đổ vì phần lớn công việc đã bị chuyển sang Ba Lan, Hungary và Czech vì chi phí thấp hơn khi những nước này gia nhập Liên hiệp châu Âu. Không lâu trước đây, chế tạo đã là nguồn cung cấp việc làm chính ở Mĩ mãi cho tới cuối những năm 1990 mà việc khoán ngoài cơ xưởng và công việc lao động cho Trung Quốc bắt đầu. Ngày nay Trung Quốc nổi lên như một trung tâm về chế tạo, không phải Mĩ với hàng nghìn cơ xưởng và hàng triệu việc làm được tạo ra. Tuy nhiên với giáo dục tiến bộ trong STEM, đặc biệt trong các thể chế giáo dục tư thục như Harvard, Stanford, Massachusetts Institute of Technology, Carnegie Mellon, California Technology University mà hội tụ vào năng lực công nghệ, những ngành công nghiệp mới trong phần cứng, phần mềm, công nghệ sinh học, công nghệ nano đã nổi lên và làm thay đổi toàn thể phương trình cân bằng kinh tế để giữ cho Mĩ ở trên đỉnh.
Trong mô hình giáo dục mới này, sinh viên phải đặt mục đích nghề nghiệp của họ sớm để chọn lĩnh vực học tập thích hợp trong đại học. Trường trung học cung cấp thông tin nghề nghiệp và việc khuyên nhủ trước khi học sinh vào đại học. Trong đại học sinh viên phải làm chủ một số năng lực để tốt nghiệp với bằng cử nhân. Thay vì học bằng ghi nhớ sự kiện để qua các kì thi, sinh viên làm việc trên các dự án với độ phức tạp biến thiên để áp dụng tri thức của họ vào phát triển kĩ năng. Dự án capstone được yêu cầu cho sinh viên trong năm thứ tư tổ hợp mọi kĩ năng đã được học của họ vào trong một dự án thực. Dự án capstone chứa các năng lực từ nhiều miền và có liên quan tới tình huống chỗ làm việc. Mọi kì thi đều dựa trên việc làm chủ năng lực bằng việc áp dụng các khái niệm không chỉ là ghi nhớ sự kiện. Sinh viên được khuyến khích làm việc theo tổ để giải quyết vấn đề khi họ học các kĩ năng mềm khác như làm việc tổ, trao đổi và quản lí thời gian v.v.
Hội tụ then chốt của mô hình giáo dục mới là hội tụ vào việc học và tiến bộ của sinh viên. Sinh viên được dạy thu được lấy thông tin trước khi tới lớp để cho lớp học được dành nhiều hơn cho hỏi và trả lời, kiểm điểm các khái niệm khó, và thảo luận trên lớp để thúc đẩy hiểu biết chiều sâu về chủ đề. Sinh viên học bằng việc làm công việc thay vì ghi nhớ sự kiện. Họ nhận các phản hồi từ thầy giáo ngay lập tức trong thảo luận trên lớp để cho họ có thể học nhanh chóng và phát triển tri thức cần thiết để xây dựng năng lực của họ. Tài liệu giảng dạy được thiết kế để xây dựng các kĩ năng được yêu cầu để làm chủ một số các năng lực. Trong mô hình mới này, thất bại không phải là tuỳ chọn mà thay vì thế sinh viên có thể học được từ việc phạm sai lầm và làm lại công việc của họ cho tới khi họ làm chủ mọi năng lực.
Trong mô hình giáo dục mới này, thầy giáo không dành thời gian để truyền thụ tri thức nhưng mong đợi sinh viên là người học độc lập. Thầy giáo hỗ trợ cho sinh viên học bằng việc huấn luyện và kiểm điểm công việc của họ. Mục đích của họ là để giúp cho sinh viên phát triển các năng lực cho tới khi họ trở thành người học tự hướng dẫn để xây dựng thái độ học cả đời. Vì một số sinh viên yêu cầu nhiều giúp đỡ và hướng dẫn hơn người khác, thầy giáo có thể cá nhân hoá phương pháp giảng dạy của mình để điều tiết theo nhu cầu của sinh viên. Lúc bắt đầu lớp thầy giáo thiết lập ra bản kế hoạch cho mọi sinh viên với mục đích và mục tiêu rõ ràng để hướng dẫn họ xây dựng năng lực riêng của họ. Kế hoạch học tập là chiến lược để cho sinh viên một khuôn khổ cấu trúc để học nơi họ tuân theo một trình tự và mục đích là làm chủ một số năng lực bên trong thời gian cho phép, điều đưa tới việc hoàn thành bằng cấp cử nhân trong bốn năm.
Thầy giáo kiểm điểm công việc của sinh viên và đo tiến bộ của họ hướng tới mục đích của họ. Chẳng hạn, sinh viên hoàn thành môn lập trình tốt thế nào khi môn này được chia thành nhiều mô đun, mỗi mô đun hội tụ vào một năng lực (như cú pháp, cấu trúc dữ liệu, chu trình, v.v.) Thầy giáo hỗ trợ cho sinh viên học bằng việc cung cấp phản hồi, giải thích những khái niệm khó, nêu các ví dụ, hỏi các câu hỏi v.v. Bên ngoài khía cạnh kĩ thuật, thầy giáo cũng động viên, khuyến khích và hỗ trợ cho sinh viên đạt tới mục đích giáo dục của họ. Bên cạnh tri thức kĩ thuật, mô hình giáo dục mới cũng cung cấp các kĩ năng mềm nền tảng như trao đổi, tư duy phê phán, tổ chức, lãnh đạo, học vấn công nghệ, làm việc tổ và cộng tác điều tạo ra khác biệt lớn cho thăng tiến của sinh viên trong nghề nghiệp của họ.
Để đảm bảo rằng chương trình bằng cấp của nó có liên quan tới chỗ làm việc, đại học cũng giám sát dữ liệu thị trường việc làm để nhận diện các ngành công nghiệp trong đó tăng trưởng và thay đổi công nghệ có thể tác động lên việc thuê người và dùng những dữ liệu này để cải tiến việc đào tạo của họ. Đó là lí do tại sao vài đại học hàng đầu có khả năng cung cấp những bằng cấp đề cập tới những năng lực được cần cho nhân viên trong một số ngành công nghiệp có nhu cầu cao.
Ngày nay công nghệ đang tác động tới mọi thứ, điều bản chất cho đại học là hội tụ nhiều nỗ lực hơn vào đào tạo STEM và chấp nhận phương pháp học tích cực để phát triển người tốt nghiệp có kĩ năng để đáp ứng cho nhu cầu công nghiệp. Mọi công nhân tương lai sẽ yêu cầu phát triển thường xuyên, đào tạo, đào tạo lại, và những công việc thách thức đặc biệt khi việc học cả đời và đào tạo cả đời là thực tại.
Tác phẩm, tác giả, nguồn
- Tác phẩm: Lời khuyên về giảng dạy dành cho giáo viên
- Nguồn: Blog của giáo sư John Vu, Carnegie Mellon University.
- Wiki hóa: https://kipkis.com