Phương pháp dạy học tiết ôn tập môn toán
Mục lục
Mục đích
Nhằm tổ chức, điều khiển học sinh ôn tập, tổng kết, hệ thống hóa và khái quát hóa tri thức, kĩ năng sau khi học xong một chương, một phần hay toàn bộ chương trình môn học. Bản mẫu:Mục lục bên phải
Cấu trúc
Loại bài này thường gồm các bước sau (đương nhiên không phải bài ôn tập nào cũng đều phải như thế).
- Tổ chức lớp
- Định hướng mục đích, nhiệm vụ học tập
- Tổ chức cho học sinh hệ thống hóa, khái quát hóa trên cơ sở đã được chuẩn bị trước nhằm xây dựng nên những bảng tổng kết, các sơ đồ, biểu đồ,...
- Tổng kết bài học[1]
- Hướng dẫn công việc ở nhà.
Các hoạt động dạy học ôn tập
Có nhiều cách dạy học ôn tập, một phương án là: Hoạt động hóa người học thông qua việc bài tập hóa những kiến thức cơ bản.
Giờ học được thiết kế theo chùm 4 bài tập tương ứng với 4 loại đối tượng học sinh là: Giỏi - Khá - Trung bình - Yếu, kém.
Phương pháp chủ yếu là mỗi đối tượng học sinh được giao một bài tập thích hợp theo mức độ tăng dần. Bài tập được chuẩn bị theo bảng sau:
Đối tượng | Mức độ | Ghi chú | |||
---|---|---|---|---|---|
Mức độ 1 | Mức độ 2 | Mức độ 3 | Mức độ 4 | ||
Học sinh Yếu, kém | Bài 1.1 | Bài 1.2 | Bài 1.3 | Bài 1.4 | |
Học sinh Trung bình | Bài 2.1 | Bài 2.2 | Bài 2.3 | Bài 2.4 | |
Học sinh Khá | Bài 3.1 | Bài 3.2 | Bài 3.3 | Bài 3.4 | |
Học sinh Giỏi | Bài 4.1 | Bài 4.2 | Bài 4.3 | Bài 4.4 |
Ghi chú: Mức độ được tăng dần từ mức 1 đến mức 4 (có thể phân bậc mịn hơn nữa càng tốt), trong đó:
- Bài 1.4 tương đương bài 2.1
- Bài 2.4 tương đương bài 3.1
- Bài 3.4 tương đương với bài 4.1,...
Với sự chuẩn bị như vậy, giáo viên giao nhiệm vụ, học sinh tự giác chiếm lĩnh tri thức. Giờ học được diễn biến theo tiến trình:
- Hoạt động 1: Giáo viên giao nhiệm vụ bằng cách, yêu cầu mỗi đối tượng làm một bài tập thích hợp. Tất nhiên là có sự hạn chế thời gian.
- Hoạt động 2: Giáo viên theo dõi hoạt động của học sinh và giải đáp thắc mắc cũng như đưa ra những hướng dẫn hoặc gợi ý cho mỗi đối tượng, học sinh độc lập làm bài.
- Hoạt động 3: Kiểm tra kết quả công việc sau khoảng thời gian cho phép.
- Nếu học sinh nào làm đúng, nhanh nhất sẽ được khen và được thưởng (thông qua việc mời học sinh đó chữa bài cho cả lớp), giáo viên đừng quên cho điểm.
- Còn với những học sinh chưa hoàn thành công việc trong thời gian cho phép thì cần học tập lời giải của bạn và tự điều chỉnh.
- Giáo viên cần giúp học sinh lấp được lỗ hổng trong kiến thức của họ.
- Hoạt động 4: Giáo viên chuẩn hóa kiến thức. Chú ý thông qua hoạt động này, giáo viên giúp học sinh nắm được tri thức và tri thức phương pháp.
Các hoạt động được diễn ra và lặp lại cho đến khi hoạt động nhận thức được thực hiện.
Ưu điểm, nhược điểm
Cách dạy học ôn tập như thế có những ưu điểm, nhược điểm chính sau:
- Ưu điểm: Học sinh được hoạt động độc lập, tự giác hoạt động để chiếm lĩnh kiến thức phù hợp với trình độ nhận thức của mình.
- Nhược điểm: Chuẩn bị vất vả, điều khiển giờ học phức tạp vì có nhiều học sinh hiểu không giống nhau, nếu điều khiển không khéo giờ học sẽ bị phân tán và phản tác dụng. Mặt khác, trong quá trình tự học như vậy, học sinh nào tự giác tích cực sẽ đạt hiệu quả cao hơn, ngược lại một số học sinh kém, hoạt động chậm hơn luôn bị động và rất dễ dẫn đến chán học.
Sáu lời khuyên khi dạy tiết ôn tập
- Để chuẩn bị cho tiết ôn tập, yêu cầu học sinh làm việc ở nhà: trả lời các "câu hỏi tự kiểm tra" và chuẩn bị các bài tập.[2]
- Mục "Tóm tắt những kiến thức cần nhớ" trong SGK nhằm mục đích để cho học sinh tra cứu nếu cần thiết, không nên giảng lại cho học sinh trong giờ học ôn tập.[2]
- Tiết ôn tập không phải là để giáo viên nhắc lại các kiến thức đã học, mà là để giúp học sinh nhớ lại, làm lại và tìm ra mạch kiến thức cơ bản của một nội dung được học.
- Nên có các bảng hệ thống thể hiện mối liên quan hệ thống của kiến thức.
- Trong tiết ôn tập trên lớp, giáo viên chọn một vài bài tập có nội dung tổng hợp liên quan đến nhiều kiến thức cần ôn tập và cùng làm việc với học sinh, qua đó nhắc lại, khắc sâu, hệ thống và nâng cao các kiến thức cần nhớ và phương pháp giải. Không nên đi sâu vào những tính toán cụ thể.[2]
- Luôn luôn thay đổi hình thức ôn tập cho phong phú, đa dạng và hiệu quả khoảng 15/20 phút[3] cho mỗi hình thức. Trong bất kì hình thức nào, Hs cũng phải được chủ động tham gia vào quá trình ôn tập kiến thức.
Xem thêm
- Phương pháp dạy học toán cho học sinh trung bình
- Tạo tình huống có vấn đề trong dạy học môn toán
- Biện pháp rèn cho học sinh kỹ năng trình bày bài làm môn toán
- Dạy học khái niệm hàm số ở trường phổ thông
Tài liệu tham khảo
- Tài liệu bồi dưỡng Giáo viên thực hiện chương trình, sách giáo khoa lớp 10 môn Toán, Nhà xuất bản Giáo dục, 2006, trang 103.
Chú thích
- ↑ Nếu học sinh sử dụng năm phút sau giờ giảng thậm chí "hai phút" để hệ thống lại trong đầu những gì đã học thì hiệu quả bài giảng sẽ đặc biệt tăng cao! Xem chi tiết: Các kỹ thuật dạy học tích cực/Kỹ thuật “Trình bày một phút”
- ↑ 2,0 2,1 2,2 Sách giáo viên Hình học 10 Ban khoa học xã hội và nhân văn thí điểm, NXB Giáo dục, 2003, trang 31-32
- ↑ Lấy lại sự chú ý của sinh viên sau mỗi 15 phút. Theo một số nhà quan sát, sinh viên có sự chú ý rất ngắn tầm 15 hoặc 20 phút. Sau mười lăm phút, rất hữu ích để "thiết lập lại" sự chú ý bằng việc đưa ra một số hoạt động cần sự hưởng ứng của sinh viên. Điều này có thể đơn giản như yêu cầu học sinh viết một câu duy nhất giải thích những điểm chính được thảo luận, hoặc để giải thích cái gì mà họ không hiểu bao gồm cả yêu cầu sinh viên không được ghi chép trong một thời gian ngắn, sau đó làm việc trong các nhóm để xây dựng lại những gì họ vừa nghe. (Xem chi tiết: Xây dựng một bài dạy hiệu quả)